Về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có ý kiến cho rằng, vai trò lãnh
đạo của Đảng được thực hiện là từ Đảng có chủ trương đúng, ý Đảng
hợp lòng dân, có cán bộ đảng viên đi trước nêu gương, không cần phải
có Hiến pháp cho phép. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, không
có điều khoản quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng vẫn
lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Từ đó, họ đề nghị, tới đây khi sửa đổi Hiến pháp nên xóa bỏ Điều 4.
Để bàn về ý kiến này, cần tìm hiểu kỹ Điều 4 trong Hiến pháp.
Trước Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 1980 ở Điều 4 đã có ghi:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và Bộ Tham mưu chiến đấu của
giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết Mác -
Lênin là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là
nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân Việt Nam. Các tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Đến Hiến pháp năm 1992, Điều 4 có sửa lại “Đảng Cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Như vậy, Hiến pháp thừa nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội chứ không phải cho phép Đảng được lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Hiểu Điều 4 của Hiến pháp như là “giấy phép” cho Đảng là không đúng.
“Giấy phép” cho Đảng có vai trò lãnh đạo chính là lòng tin yêu của
nhân dân. Từ khi Đảng ra đời đến nay, do ý Đảng hợp lòng dân nên
Đảng đã lãnh đạo được nhân dân ta đấu tranh giành được hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
Hiến pháp không phải là “giấy phép” cho Đảng có vai trò lãnh đạo
nhưng vì trong xã hội có lực lượng của nhiều tổ chức chính trị - xã
hội khác nhau nên sự thừa nhận chính thức vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội trong Hiến pháp là rất
cần thiết. Với sự thừa nhận đó, Đảng có trọng trách trong việc lãnh
đạo xây dựng bộ máy chính quyền, trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và
thời đại để giành thắng lợi cho cách mạng.
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8-1945, mục tiêu độc lập, tự
do, hạnh phúc được thực hiện theo cơ chế chung là Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện qua việc bầu ra Quốc hội
là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình, để quản lý toàn xã
hội bằng luật pháp. Quốc hội ban hành Hiến pháp là luật gốc. Điều 4
trong Hiến pháp là chỗ dựa pháp lý để Nhà nước quản lý tổ chức và
hoạt động của Đảng.
Từ khi nhân dân ta có Đảng lãnh đạo, các thế lực thù địch với cách
mạng Việt Nam luôn chĩa mũi nhọn của chúng vào việc chống phá Đảng.
Sự thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng như trong Điều 4 của Hiến
pháp là cơ sở pháp lý để trừng trị những kẻ có hành vi cố tình xuyên
tạc vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động
nhân dân chống lại Đảng hòng mưu toan lật đổ chính quyền cách mạng,
thay đổi chế độ xã hội để nhân dân không còn có quyền làm chủ.
Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 không chỉ thừa nhận Đảng là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn quy định điều kiện Đảng phải có
để giữ được vai trò lãnh đạo. Điều kiện đó là Đảng phải gắn bó chặt
chẽ với giai cấp công nhân, phải là đại biểu trung thành quyền lợi
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mọi tổ
chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nếu Đảng không tự xây dựng được mình theo những điều kiện đó thì
Đảng không có tư cách là Đảng lãnh đạo.
Về phía nhân dân ta, để giữ cho vai trò lãnh đạo của Đảng được bền
vững cũng cần có ý thức về điều kiện nêu ra ở Điều 4 của Hiến pháp
để giám sát việc xây dựng Đảng, buộc Đảng phải tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, phải tôn trọng Quốc hội, cơ quan quyền lực của Nhà nước
cao nhất của dân, do dân bầu ra, không cho phép Đảng lãnh đạo trở
thành đảng trị với những đặc quyền đặc lợi.
Các đại biểu Quốc hội do dân bầu ra cũng cần dựa vào Điều 4 của Hiến
pháp để đấu tranh làm cho Quốc hội tiếp thu và thực hiện tốt đường
lối, chủ trương, chính sách đúng của Đảng, đồng thời phải tích cực
đóng góp ý kiến để Quốc hội phê bình khi có dấu hiệu Đảng vi phạm
các điều kiện được quy định ở Điều 4 của Hiến pháp.
Đề ra được Điều 4 như trong Hiến pháp năm 1992 là rất cần, rất hay
nhưng không phải lúc nào cũng làm được. Hiến pháp năm 1946 không thể
có quy định về sự thừa nhận Đảng lãnh đạo, vì trong tình thế đặc
biệt, ngày 11-11-1945, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán để hoạt
động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Hiến pháp năm
1959 cũng không thể có quy định như Điều 4, vì đất nước còn bị chia
cắt, Đảng bộ ở miền Nam còn phải hoạt động bí mật, chính quyền Diệm
theo Mỹ đang thi hành “diệt cộng tố cộng” rất quyết liệt, dân rất sợ
bị địch chụp mũ là “Việt cộng”.
Tới đây, khi sửa đổi Hiến pháp, đề nghị vẫn giữ Điều 4, có bổ sung
thêm quy định về việc xử lý kỷ luật của Quốc hội đối với tổ chức
Đảng ở cấp Trung ương và địa phương khi có dấu hiệu vi phạm Hiến
pháp và pháp luật. Sau khi Hiến pháp 1992 sửa đổi, được ban hành cần
sớm có luật cụ thể để thực hiện Điều 4.
Trong Hiến pháp sửa đổi tới đây, nên có quy định thành lập cơ quan
Thanh tra của Quốc hội và Tòa án bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến
pháp là luật gốc, phải được thực hiện nghiêm.
Ông Trần Trọng Tân
Nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét